Lịch sử Thời_kỳ_Bắc_thuộc_lần_thứ_hai

Cuối Đông Hán

Sau khi Hai Bà Trưng thất bại, nhà Đông Hán tiếp tục duy trì sự cai trị tại bộ Giao Chỉ. Cuối thế kỷ 2, nhà Đông Hán suy yếu, chiến tranh quân phiệt bùng nổ. Hán Hiến Đế bị các quyền thần thay nhau khống chế.

Trước tình hình đó, Thái thú[2] quận Giao ChỉSĩ Nhiếp xin nhà Hán cho 3 người em là Sĩ Nhất, Sĩ Vĩ và Sĩ Vũ làm thái thú các quận: Sĩ Nhất làm Thái thú Hợp Phố, Sĩ Vĩ làm Thái thú Cửu Chân, Sĩ Vũ làm Thái thú Nam Hải. Triều đình nhà Đông Hán do rối loạn trong nước không thể quản lý bộ Giao Chỉ xa xôi nên mặc nhiên thừa nhận. Từ đó thế lực họ Sĩ ở Giao Chỉ rất lớn.

Năm 192, người bản địa quận Nhật Nam theo Khu Liên khởi binh chống nhà Hán và thành lập nước Chăm Pa độc lập. Lực lượng nhà Đông Hán ở phía nam yếu ớt không chống nổi, bất lực trước sự ly khai của Khu Liên. Từ đó phía nam quận Nhật Nam trở thành nước Chăm Pa, tách hẳn sự cai trị của nhà Đông Hán và các triều đại Trung Quốc sau này.

Năm 200, Tào Tháo đang nắm vua Hiến ĐếHứa Xương đánh bại được đối thủ quân phiệt lớn nhất là Viên Thiệu trong trận quyết định ở Quan Độ. Nắm quyền chủ động ở Trung Nguyên, Tào Tháo bắt đầu quan tâm tới miền nam. Năm 201, Tào Tháo nhân danh Hiến Đế cử Trương Tân sang làm thứ sử bộ Giao Chỉ[3].

Bản đồ Trung Quốc năm 208.

Năm 203, Trương Tân và Sĩ Nhiếp cùng nhau dâng biểu xin lập bộ Giao Chỉ làm châu, nhà Hán mới đặt bộ Giao Chỉ làm Giao Châu. Từ đó Giao Châu được ngang hàng với các châu khác ở Trung Quốc. Hiến Đế phong Trương Tân làm quan mụcGiao Châu. Bắt đầu từ đấy có tên Giao Châu[4].

Năm 206, Trương Tân bị bộ tướng Khu Cảnh giết chết. Khi đó Lưu Biểu đã trấn giữ Kinh Châu không thần phục Tào Tháo, bèn sai thủ hạ là Lại Cung sang làm quan mục Giao Châu. Cùng lúc, thái thú quận Thương Ngô là Sử Hoàng cũng chết, Lưu Biểu vội sai Ngô Cự đi cùng Lại Cung sang làm thái thú Thương Ngô.

Thời Tam Quốc và nhà họ Sỹ

Năm 207, Tào Tháo can thiệp vào Giao Châu, sai người đưa thư phong Sĩ Nhiếp làm Tuy Nam trung lang tướng, cho quản lý cả bảy quận của Giao ChâuNam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu ChânNhật Nam và kiêm thái thú quận Giao Chỉ như trước. Trong khi đó hai thủ hạ của Lưu Biểu là Ngô Cự và Lại Cung lại bất hòa. Hai người chưa tới nơi trấn trị đã trở mặt đánh nhau. Ngô Cự đánh đuổi Lại Cung khiến Lại Cung chạy về quận Linh Lăng (thuộc Kinh Châu), còn Ngô Cự tới được trị sở Thương Ngô.

Năm 208, Lưu Biểu chết. Tào Tháo mang đại quân nam tiến đánh chiếm Kinh Châu. Cuối năm 208 xảy ra trận Xích Bích. Tào Tháo thất bại trong ý đồ thống nhất Trung Hoa, phải rút về Trung nguyên. Tôn QuyềnLưu Bị thắng trận, thừa cơ cùng nhau đánh chiếm đất Kinh Châu từ tay Tào Tháo để lại.

Đối với Giao Châu, Tôn Quyền cũng giành lấy quyền quản lý. Năm 210, Tôn Quyền sai thủ hạ là Bộ Chất sang làm Thứ sử Giao châu. Sĩ Nhiếp tuy trước đã thần phục Tào Tháo nhưng biết không thể chống lại Tôn Quyền nên đành phải nghe theo, chấp nhận ngôi vị của Bộ Trắc. Từ đó Giao Châu trên danh nghĩa thuộc về họ Tôn mà ít lâu sau thành lập nước Đông Ngô khi Trung Quốc chính thức chia làm 3 nước: Tào Ngụy, Thục HánĐông Ngô.

Tuy Bộ Chất làm thứ sử nhưng thế lực của họ Sĩ vẫn rất lớn và thực quyền cai quản trong tay họ Sĩ. Sĩ Nhiếp sai con là Sĩ Hâm sang làm con tin ở Kiến Nghiệp với Tôn Quyền và được phong làm Long Biên hầu.

Năm 226, Sĩ Nhiếp chết, con trai là Sĩ Huy tự mình lên thay chức Thái thú quận Giao Chỉ không xin lệnh Tôn Quyền. Để tăng cường quản lý phía nam, Tôn Quyền chia Giao Châu cũ của nhà Hán làm hai: lấy 3 quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô phía bắc hợp thành Quảng Châu, giao cho Lã Đại làm Thứ sử; Giao Châu chỉ còn 4 quận phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và một phần quận Nhật Nam, giao cho Trần Thì làm Thứ sử. Tuy nhiên Sĩ Huy mang quân ngăn trở Trần Thì đến nhận chức. Tôn Quyền sai Lã Đại mang quân sang đánh để triệt bỏ họ Sĩ. Lã Đại lừa giết anh em Sĩ Huy và chiếm lấy Giao Châu. Từ đó Giao Châu hoàn toàn thuộc về Đông Ngô. Tôn Quyền lại bỏ Quảng Châu, khôi phục Giao Châu gồm 7 quận như cũ, cho Lã Đại làm Giao Châu mục.

Nhà Đông Ngô

Năm 248, cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh bị Thứ sử Giao Châu là Lục Dận (Đông Ngô - cháu Lục Tốn) dập tắt.

Cuối năm 263, Tào Ngụy diệt Thục Hán. Cùng năm, viên quan ở quận Giao ChỉLữ Hưng (Lã Hưng) giết chết Thái thú Tôn Tư của Đông Ngô, mang quận về hàng Tào Ngụy.

Vua Ngô là Cảnh Đế Tôn Hưu vội chia lại Giao Châu như ý định của Tôn Quyền năm 226: tách 3 quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô phía bắc hợp thành Quảng Châu, đặt trị sở ở Phiên Ngung và Giao Châu gồm 4 quận phía nam là Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu ChânNhật Nam.

Quyền thần nhà Ngụy là Tư Mã Chiêu nhân danh Ngụy Nguyên Đế Tào Hoán phong cho Lã Hưng làm An Nam tướng quân kiêm Thái thú Giao Chỉ, coi việc binh ở Giao Châu và Hoắc Dặc (tướng cũ Thục Hán) làm Thứ sử Giao Châu (nhưng vẫn đóng quân ở Nam Trung, không trực tiếp sang Giao Châu). Cuối năm 264, Lã Hưng bị thủ hạ là Công tào Lý Thống giết chết.

Năm 265, con Tư Mã Chiêu là Tư Mã Viêm cướp ngôi nhà Ngụy, lập ra nhà Tấn. Hoắc Dặc tiến cử Dương Tắc sang thay cho Lã Hưng vừa bị giết, vua Tấn đồng ý. Dương Tắc làm Thái thú Giao Chỉ, Đổng Nguyên làm Thái thú Cửu Chân.

Năm 266, nhà Tấn sau khi thu phục Thục Hán, chiếm giữ luôn Giao Châu trước đó thuộc Đông Ngô.

Từ đây, Giao Châu thuộc quyền nước Tấn. Nước Đông Ngô tiến hành chiến tranh với Tấn để tranh giành Giao Châu và Quảng Châu, gọi là Giao Quảng chi loạn. Năm 268, Ngô Mạt Đế Tôn Hạo phong Lưu Tuấn làm thứ sử Giao châu, sai đánh chiếm lại từ tay nhà Tấn, nhưng bị Dương Tắc đánh bại 3 lần. Quận Uất Lâm thuộc Quảng Châu của nhà Ngô cũng bị Dương Tắc chiếm đóng. Nhà Tấn theo tiến cử của Tắc, cho Mao Quế làm thái thú quận Uất Lâm.

Năm 271, Tôn Hạo lại sai Đào Hoàng sang đánh Giao châu. Lần này quân Ngô thắng trận, Đào Hoàng bắt được Dương Tắc và giết Mao Quế. Tuy nhiên Lý Tộ vẫn chiếm giữ quận Cửu Chân theo Tấn, không hàng Ngô. Sau đó Đào Hoàng đánh lâu ngày mới hạ được Cửu Chân. Toàn Giao châu trở về Đông Ngô, Đào Hoàng được phong làm Giao châu mục.

Năm 280, Tấn Vũ Đế diệt Ngô, bắt Tôn Hạo. Hạo viết thư khuyên Đào Hoàng hàng Tấn. Hoàng đầu hàng, được giữ chức cũ tới khi qua đời năm 300. Từ đó Giao châu thuộc nhà Tấn.

Thời Lưỡng Tấn, Nam Bắc triều

Từ thời Lưỡng Tấn tới thời Nam Bắc triều, tuy có sự thay đổi triều đại và biến động nhiều ở Trung nguyên nhưng Giao châu chỉ có những biến động quân sự, không có nhiều biến động về chính trị.

Tại miền bắc, các tộc Ngũ Hồ vào xâm chiếm và cai trị, các triều đại Đông Tấn (317-420), Lưu Tống (420-479), Nam Tề (479-502), Lương (502-557) nối nhau cai trị ở miền nam và giữ được quyền quản lý Giao châu không bị gián đoạn, thay đổi như cuối thời Đông HánTam Quốc. Những cuộc nổi dậy của người địa phương như Lương Thạc, Lý Trường Nhân chỉ kéo dài một thời gian đều bị dẹp; những cuộc xâm lấn của Lâm Ấp từ phía nam cũng nhanh chóng bị đẩy lùi; một số lực lượng nổi dậy chống triều đình chạy sang Giao châu cũng nhanh chóng bị đánh bại.